Tuesday 17 February 2015

chương 26


Ghi chú: Đoạn dưới đây Bùi Giáng viết thêm ở đầu chương:
{
Trên dặm đường dằng dặc, tôi lẩn quẩn linh hồn như con kim báo lạc rừng hiu hắt giữa mù sương thôn ổ. Gẫm lại những cái lời những con người đời xưa mà nhấm gậm lại gan mật đau đớn ở trong mình: “Ta hăm hở chí trai hồ thỷ, bởi vong tình nên thái thượng vong tâm. Nàng lưu ly thân gái liễu bồ, vì giận phận, hóa ngang tàng tính mệnh…" Nhưng mà? Mà nhé! Nhé mà? Mà chẳng nhé?
Don’t think that I am wooing, Tathagatha! Even if I were, you’d never come. For my call is always full of “A way!” Against such a powerful current you cannot advance. Like an outstretched arm is my call…
(1)
Xin chớ nghĩ rằng tôi đang cầu khẩn hỡi Như Lai!
Vì cho dẫu khẩn cầu, người cũng sẽ chẳng bao giờ chịu đến
Vì tiếng kêu của tại hạ khôn hàn
Vẫn mãi mãi chan hòa niềm ly khứ
Về hư vô là viễn xứ hư không
Và đối nghịch lại dòng tuôn xiết nọ
Người không sao tiến tới được bên lòng
Và tiếng gọi vẫn như dường như thế
Một vòng tay duỗi rộng giữa sương hồng
Và sương lục mông lung hồn lữ thứ
Và sương lam vô hạn mất vân mồng
Và vâng một vâng hai vâng ba vâng bốn
Cũng vô ngần vâng ạ ạ vân vân…
Chiêm bao đậu khấu si đần
Cơn điên cuồng dại cơn dần dần se
Ông trời bà đất so le
Thị thành tâm sự còn nhe răng cười

}
chương 26
  
沿





  西




  



  



  宿
殿
殿
殿


  

  

  

  滿

  



  殿
西

  


  宿

  

  

  宿殿


  


  


  

  西


  

Tôi và Pháp Nhẫn tới Thượng Hải, mới hay rằng tiền bạc ở trong túi áo thảy thảy đều không cánh mà bay. Không còn cách gì mướn thuyền, đành cùng Pháp Nhẫn quyết định đi bộ. Dọc đường khất thực le lói, nếm mọi mùi cay đắng.
Sau đó, chúng tôi tới Hoành Bồ Quan, bước vào biên giới Nam Hùng. Quá trạm Hồng Mai Dịch, nghe thổ dân bảo rằng đường đi vốn bằng phẳng bình an, duy có điều những đoạn đường thủy hơi nhiều, mà việc thuyền bè chểnh mảng.
Phải trải cơn chờ trận đợi, nhiều phen lắm, mới mong tới được Thủy Hưng. Chúng tôi hai đứa dốc hết tiền bạc thưa thớt còn lại trong túi áo ra, thì cũng tạm gọi là có đủ để mướn ghe và mua thực dụng.
Xong xuôi, ghe giương buồm đi. Gặp gió xuôi buồm thuận, mấy ngày sau vượt qua Trinh Thủy. Tới huyện Thủy Hưng, thì hai đứa tôi mới bớt lo âu được một phen. Đêm đó, thuyền buộc tại một bến đò xơ xác dưới gốc cây tàn dương bại liễu. Bấy giờ vào tiết Trung thu tháng chín, khí trời lạnh lẽo, sơn xuyên tịch liêu. Ngẩng mặt nhìn phong cảnh tiêu điều, chợt một trận gió tây bắc heo hút thổi qua vi vút bên mép tai. Tôi lật nhiên hãi hùng nghe ra như có một giống vật kỳ lạ đồ sộ khò khè tới tập kích chiếc ghe. Dưới ánh đèn leo lắt, tôi đưa mắt dòm thấy một đống ngổn ngang, ước có hơn trăm rưỡi con cua to bự cuộn tròn cuống rốn ù lỳ ngọ nguậy nhà ma. Té ra kể cũng là cà lũng một cảnh tượng cưỡng cơn kỳ thú tôi được nhìn ngó nhăn nhó nhất mực một lần đầu.
Pháp Nhẫn bảo tôi mà rằng:
— Tôi nghe nói Chu Phụng Sơn (núi Chu Phụng) (3) cách đây không bao xa có tòa nhà xưa của Trương Cửu Linh (thi nhân đời Đường) sáng mai chúng ta hãy len lỏi theo đường mòn tới viếng một phen chơi. Chịu bỏ chút ít thì giờ đi quanh co một trận cũng là phải lẽ vậy.
Tôi bảo:
— Chỉ tiếc là chúng ta không có cơ hội thống ẩm cuồng ca một trận. Nếu được thì chúng ta có thể mở một cuộc nướng mấy con cua kia. Rồi vào trong làng thôn, thôn làng thang lan mơ mộng mà mua một mớ rượu vàng ăm ắp đầy lu ra đây ngồi giữa cảnh trời thu mà tha hồ nhậu nhẹt thù tạc tơi bời cho nguôi cái cơn u sầu ở trong thớ dạ. Nào, nào đêm nay trăm sầu nghìn muộn, ắt có còn đày đọa máu me tim phổi chúng ta ru?
Ông lái ghe đưa tay chỉ cho chúng tôi nhìn một ngôi chùa giữa một rừng phong, bảo với chúng tôi rằng:
— Đó là Hoài Am Cổ Lan Nhược vậy. Những tường vàng vách ngọc ngày nay đã rã rời rụng rơi toe toét hết cả. Phụ lão tương truyền rằng tháng ba Giáp Thân thời xưa các bậc di lão của hàng ngũ lãnh đạo dân tộc chúng ta đã từng chiêu tướng mộ binh tại chốn này. Các ông có nhận thấy rằng vong hồn thu thảo còn phảng phất vong linh cựu thời, trong ngọn gió hiu hiu? Hỡi ôi! Phong cảnh y nhiên mà giang sơn đã đổi chủ há chẳng khiến lòng người hoài cảm ưu nhiên ru?
Chúng tôi sắp ngủ, chợt trời nổi trận gió dông mù mịt mưa tuôn. Tôi bảo Pháp Nhẫn:
— Đêm nay không thể ngủ tại ghe được. Chẳng bằng cùng vào trong am miếu kia đụt mưa, sáng mai lại lên đường.
— Như thế phải vậy.
Chúng tôi bèn từ biệt ông lái ghe, nhắm thẳng hướng Rừng Phong mà tiến gót. Tới cửa chùa nhìn thấy bốn bề tường vách rã rời sập đổ, các cánh cửa cũng tan tành. Vào trong chùa, vắng ngắt. Chỉ leo lắt thấy Phật đăng bốn phía vách. Bên cạnh điện có một con đường thông ra phía sau, dẫn tới một căn phòng nhỏ. Tôi đoán chắc đó là chốn cư trú của vị tăng trụ trì, nên dừng gót không tiến vào làm chi. Pháp Nhẫn đưa tay mò mẫn tấm bia có đề thơ, lẩm nhẩm mà đọc rằng:
— “Thập quận danh hiền thỉnh tự tư
Tòa trung nhược cá thị nam nhi
Đỉnh Hồ nan vãn long tu nhựt
Uyển Thủy tranh trì ngưu nhĩ thời
Khốc tận đông thanh đồ hữu lệ
Ca tàn Ngưng Bích cánh vô thi
Cố lăng mạch phạn thùy kiêu thủ
Doanh đắc không đường tửu mãn ba
"
— Đó là bài thơ của Đạm Quy hòa thượng (triều Minh Gia Tĩnh) tặng cho Ngũ Mai Thôn vậy. Thuở bấy giờ bọn gọi là danh lưu nhân sỹ, đã cam lòng đem đất đai tổ tiên hiến dâng cho rợ Hồ. Tàn bạo sát hại vũ nhục đủ rõ. Đạm Quy hòa thượng vốn là kẻ đội trời đạp đất, quen thói vẫy vùng, anh hào đường đường một đấng. Hỡi ôi! Đơn Hà nhứt cự, di lão ư quang, chí kim do quật nhi bất thân, hà thiên tâm chi hội hôi giả (Alack! When his abode, “red dew”, was burned down, the glorious traditions of the faithful remnants of this country were buried in obscurity, never to come to life again. Why is Heaven so stupid as to let such conditions exist?) (GKL page 132) (2)
Trời bỗng tạnh mưa. Tôi và Pháp Nhẫn, Chơn Pháp, Tuệ Pháp không nói năng gì nữa, cởi áo nằm xuống một góc điện (ghiện đóc). Tôi ngẫu nhiên từ cõi mộng kinh động tỉnh ra, lúc bấy giờ bốn bề tĩnh mịch, vạn lại trầm trầm, bách ban duệ địa thảy thảy cùng là đã quét đất mang nhiên miên nhan mậu sắc mắc sậu phiêu bồng cưỡng cơn sè sẹ. Chợt nghe Tây phong thổi táp táp, phần phật đạp vào cành tre bẹ trúc, côn trùng lạnh lẽo sầu đong tiếp nối vơi đầy. Bỗng nhiên có tiếng niệm Thi kinh (kinh thi ky thinh) mờ hoen phai nhạt cái câu lục nga sầu não vô ngần, cay đắng tuyệt lâu “Ai ai phụ mẫu! Sinh ngã cù lao!" (4) Thì cõi lòng tôi bỗng trào cơn sôi cuộc như tan rã mất rồi…
Sáng ra, trời trong xanh. Tôi gặp nhà sư đêm hôm niệm kinh Thi… Hỡi ôi! Mặt nhìn mặt! Té ra đó là người con trai của vú nuôi tôi. Chính là Triều Nhi đó vậy. Tôi kinh ngạc ngậm ngùi. Còn Triều Nhi thì cơ hồ như tưởng tôi là vong hồn ma quỷ. Hai đứa đăm đăm ngó nhau thật lâu như bị thâu hồn nhiếp phách.
Bi yếu vạn trạng mà rằng:
— A huynh trở về bao ngày như thế?
Tôi đáp:
— Đêm hôm qua tới đây, mưa gió đầy trời, đành vào trong điện này tránh mưa. Hiền đệ vì lẽ chi mà trông tiều tụy hình dong ra như thế? A mẫu bình an khỏe mạnh chứ.
Triều Nhi chưa kịp mở môi, đã thấy ròng ròng hai hàng nước mắt. Bảo tôi rằng:
— Từ mẫu em đã qua đời, em đau lòng quá, bèn rũ áo cạo đầu đi tu. Em lưu trú chốn này gần bên nấm mộ đã ba con trăng rồi (ba tháng).
Tôi nghe nói, thì bủn rủn cả tay chân bước tới ôm Triều Nhi mà khóc.
— Ý anh là về Nam Hải thì trước tiên là tìm thăm vú nuôi. Tự ngày anh còn bé bỏng, chỉ một mình vú nuôi nấng thương yêu ngờ đâu ngày nay đã là người thiên cổ. Trời Xanh ôi! Vú nuôi ân đức dưỡng dục, tôi chưa đền đáp được chút gì! Phật từ bi ôi! Lòng tôi tan nát còn ra cái cái dạng gì gì! Tim phổi cũng theo nhau rã rời đi mất hết.
Triều Nhi dẫn chúng tôi ra ngoài cửa phía tây, tới nấm mộ. Chỉ thấy đất vàng le lói một vùng, —  Hoàng thổ nhất khâu lưu chỉ trảo. Tam kinh huyền vọng kiển lư tê… (5)
Hàng bạch dương hiu hiu hắt hắt. Đàn chim rừng đậu ở trên đó, ca hót cái lời gì? Tôi và Pháp Nhẫn, phủ phục khóc than.
Triều Nhi lau nước mắt mà rằng:
— Vong mẫu cảm lòng cổ trang phu nhân vô cùng. Trừ cổ trang phu nhân ra, muốn tìm cho một người nhân đức lân mẫn, thật là không có. Em tháng trước đây gửi đi lá thư, chẳng biết rằng a huynh đã trở về. Hôm nay gặp a huynh tại đây, thì thật là mộng hồn em cũng không liệu được tới, há chẳng phải là Trời Xanh Phật Vàng Thượng Đế Đỏ cũng rủ lòng thương xót chúng ta chăng? Mẹ em ắt cũng ngậm cười nơi chín suối.

Ghi chú: Đoạn này Bùi Giáng viết thêm vào cuối chương:
{
Tôi lẩm nhẩm lời thơ nương tử con gái mục sư Robert: —  "Kô ros d’od’ieros ôs apaikassai, bruônn daphnes, class, ampelou. Puknopteroi d’eisô kat’autôn eustomouss ared ones…" but where we are is clearly consecreted ground: luxuriant in laurel, olive, vine and deep in song of nightingales… (6)
Và nơi chốn chúng tôi tao ngộ ấy
Là đất đai của Thơ Mộng Thiêng Liêng
Cành Nguyệt Quế và Ô Liu Nho Thắm
Và Yến Oanh thăm thẳm dậy bên miền...

}
























No comments:

Post a Comment