|
Tôi đau ốm
suốt bốn ngày đêm xong xuôi một trận, thì mới đủ sức bình yên, không cần phải
dùng thuốc thang (1) nữa. Mẹ tôi và dì tôi và mọi người trong nhà, ai ai cũng tưng
bừng nét mặt. Ấy vào ngày mồng ba tháng ba. Khí trời thanh tân tôi ngồi dậy lại
bên cửa sổ, vén tấm màn nhìn ra ngoài. Sắc núi rực rỡ chân trời, hoa lá chim
chóc thi đua nhau đâm bông và ríu rít, trong một trận trường kỳ thi đua gay cấn.
Nửa như phản kháng nhau. Nửa như ứng đáp nhau. Lại thêm một nửa như... như
nhiên thường hằng chan hòa từng cơn cơn thái hư tịch mịch.
Lòng tôi thư thái dị thường. Chợt tưởng như một sự: Dường như suốt mấy ngày đau
ốm, mỗi phen từ trận mê man lò dò tỉnh giấc, mỗi phen lại dường như khướu giác
lại chạm phải mùi hương xuân sắc bất khả tư nghị. Chẳng rõ là hoa hay lá? Hay đạo
hạnh? A na tam miệu tam Bồ đề? Tứ Bồ Tát? Ngũ ni cô? Thật quả là tôi không phân
biệt được rõ. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng đó ắt nhiên là một loại hương phấn bốc
hơi pha màu xiêm nghê thường quần duệ địa vậy. Bên giường tôi nằm trên chiếc
bàn nhỏ (2), mỗi buổi mai, lại mỗi có một bó hoa tươi tốt đặt gọn gàng ôn tồn nằm
yên vui trong cái lọ. Màu hoa gì như thế? Sắc hương thênh thênh, hoa tâm như
còn chứa đọng giọt sương ướt át rất mực liền tồn từng khoảnh khắc sát na.
Hôm nay chợt thấy một bức phỉ thúy khâm châm (3) đặt trên chiếc bàn. Ban sơ tôi nghĩ rằng đó
là đồ vật thơ ngây của em gái rất mực nữ lang Tĩnh Tử Kiyoko và như vậy thì hiển
nhiên bó hoa tươi tốt lòe xòe ắt cũng chính là (4) tặng vật lòe xòe của mỹ nhân loe lói diễm
kiều kia đó vậy. Mới hay rằng đó té ra là hiển nhiên như thế. Tôi lại chậm rãi
nhớ ra rằng ngày trước tợ hồ như từng đã có phen ôn tồn tương thức. Ấy nhân vì
ngày trước tại trong phòng văn tiểu thư con gái mục sư Robert tôi từng đã có
phen lăn tăn nhìn thấy tấm họa hình ảnh nữ sĩ Hy Lạp Sappho (5) do bàn tay một nghệ
sĩ Đức quốc (6). Hình ảnh đó và nữ lang ôn tồn này trông giống nhau quá sức. Cũng
hai con mắt đen láy tròn trĩnh ưu tư. Cũng làn mi liễu cong vòng vang lừng trên
mặt ngọc. Cũng hai môi khép mở mơ hồ lúc làn tóc mây lòa xòa buông xuống một
bóng hoàng hôn của bình minh kỳ ảo phiêu bồng.
Đương lúc tôi trầm ngâm như thế, chợt đưa mắt lưu ý tới phía dưới màn the, trần
thiết cực kỳ phong nhã. Có một chiếc bàn với hình hài trái xoan trứng ngỗng
thiên nga lồ lộ. Trên có đặt một chiếc gương soi, một chiếc hộp nạm bạc, và bút
nghiên, và đèo thêm một dải lụa hồng tua tủa nem dén mép rìa râu mọc thơ ngây.
Không một hột bụi nào đậu vào trong cụm ngây thơ nọ. Bên cạnh lại có một chiếc
rương nho nhỏ học trò đựng sách gỗ (7) lá cây, hình trạng giống như cái tổ ong tò
vò, hoặc cái chuồng bồ câu tư lự. Sách chứa trong đó khá nhiều. Tôi lò dò
tiến lại lần giở ra xem xét lai rai nhận xét một vài. Đều là sách cổ xưa
Trung Quốc, tới lúc nhìn qua tường vách bên tả, lại thấy một chiếc bàn ghế nhỏ
cỏn con, trên có đặt một chiếc nhạn trụ (8) minh tranh, tợ hồ như còn văng vẳng dư
âm phảng phất trên huyền ty loan phím.
Lúc bấy giờ, tôi mới chịu kinh hoảng hiểu ra rằng đó là căn phòng lầu các của
khuê nữ rất mực Tĩnh Tử ( Kiyoko). Trong lòng tôi lại càng thêm thán phục nữ
lang nọ đa tài, học rộng, thâm thúy xuất trần, thật quả có như là bình sinh hóa
thân của Ma Cô Tiên Tử (9) (Nường Tiên kiều diễm ở trong núi Ma Cô) Ma Cô là núi,
mô ca là rừng? Hỡi ôi! Kiyoko sư muội sư nương nõn nường tài hoa ra như thế?
Anh hoa phát tiết ra ngoài? Ngàn thu rất mực một tài hoa riêng?
Lúc bấy giờ, tôi lại cảm thấy trong lòng như có nảy ra một sở niệm tiêu dao
phiêu bồng. Rồi sau đó, lại tiêu điều vũ nhiên nhược thất (10)?
Như đang giữa cơn đánh mất một cái gì (10)?
Chợt thấy mẹ tôi lên thang gác, tay cầm hai bộ áo xuân. Mẹ bảo:
— Tam Lang, hôm nay cuồng phong đại tuyết đã đề huề rút lui. Mùa đông đã đi qua
rồi. Thì con hãy thử mặc bộ quần áo này vào mừng xuân.
Tôi cầm lấy hai bộ quần áo, rồi xuống bên mẹ tôi trên chiếc ghế dài nệm gấm viền
tua, có lò xo bối rối. Mẹ tôi âu yếm nhìn tôi đưa tay vò đầu tôi, sờ vào trán
tôi và hỏi:
— Con cảm thấy thế nào tới sáng nay?
Tôi đáp:
— Con cảm thấy thư thái. Không có chi khổ nhọc gay cấn, chỉ xương xẩu còn hơi mỏi
mệt máu me chút ít mà thôi. Bao giờ mẹ sẽ dẫn con và em gái về nhà? Con cũng
chưa gặp lại người chị của con.
Mẹ đáp:
— Lúc nào cũng được. Ban đầu mẹ có ý chờ con bình phục sẽ quay về. Nhưng dì của
con đêm qua lại một hai khẩn khoản yêu cầu mẹ khoan đi vội. Sáng nay đã gởi thư
cho chị con biết tin. Dì con còn một sự việc thiết tâm lắm lắm, cùng mẹ bàn bạc
qua loa. Nếu như con ở đây thấy thư thái thì mẹ cũng không có ý về nhà ngay làm
gì. Con biết rằng mẹ tuổi đã cao, cuộc đời đã xế thân thuộc sinh bình ai
ai cũng đã già hết cả rồi. Cũng chẳng còn năng lui tới thăm viếng nhau. Đâu còn
có như thời xuân xanh tới lui ngày ngày nô nức nữa? Ngày nay mẹ đưa mắt nhìn bốn
phía chỉ duy còn có chỗ dì con là nơi chốn thân mật bịch bồ, hình ảnh thong
dong tương hợp. Huống nữa dì thấy con, thì trong lòng dì vui mừng vô hạn, thì
con trọ lại đây cũng chẳng khác chi ở giữa gia đình. Mẹ biết tính tình con chỉ
mong ước cảnh u tịch, thì ở lại đây trọ căn gác này là rất thích hợp vậy. Căn
gác này vốn là khuê phòng của Tĩnh Tử. Từ ngày con tới thì Tĩnh Tử mới dọn xuống
phòng dưới, cùng với em gái của con ở chung. Tam Lang con ở lại đây, nếu thấy
không thích hợp, thì hãy nói thật tình cho mẹ rõ.
Tôi đáp;
— Con xin tuân lời mẹ dạy bảo. Phong vật nhà dì thật là tốt đẹp, ở lại một thời
gian, lòng con rất sung sướng.
Lúc bấy giờ người bếp vào cho hay rằng cơm sáng đã dọn tề chỉnh. Mẹ tôi hân
nhiên khoan khoái, bảo tôi thay y phục đặng xuống phòng điểm tâm (11). Theo gót mẹ
xuống tới phòng ăn, tôi thốt lời cảm tạ ôn tồn dì tôi hậu đãi ân cần chiếu cố.
Dì tôi đón tôi vào, hân hoan vạn trạng. Đưa mắt nhìn tôi mà rằng:
— Nhờ ơn Trời phật, Tam Lang đã khỏi bệnh. Tĩnh Tử con hãy lẹ chân bước tới
chào anh Tam Lang của con đi, xem sáng nay anh con cảm thấy thế nào?
Thoáng một cái, đã thấy ngọc nhân gót sen vi vút, dìu dặt bước qua như bóng nhạn
ngang trời, lướt tới bên tôi, trang trọng cung thân xá một cái, rất mực
"mái cột" môn tường phong nhã sả phạ chiêm bao.
Lúc bấy giờ ngọc nhân phong tư tài mạo vân mấn xum xuê tót vời thể thái, phong
độ càng nhìn càng siêu, càng ngó càng ưa và mến, và cũng càng như bán khai bao
hàm khôn xiết chất mối khuynh thành khiến cho bình sinh, phải chịu trận tam
sinh khuynh quốc. Hỡi ôi! Sự thể đã ra như thế nào, thiết thân láng giềng lân cận,
nửa mơ hồ bất định lưu ly, nửa một cơn lồng lộng thinh không dìu dặt cuộc phiêu
bồng lảo đảo. Làm sao tôi còn dám? Trận khôn hàn vô hạn ngẩng mặt nhìn nhau?
Nhưng chả lẽ bỏ chạy mất? Như quân cướp đi chinh phục xóm làng bỗng hãi nhiên
rút lui về sào huyệt? Vì bất thình lính cảm thấy bị vây bọc, bốn bề bị tập kích
giáp công? Dù sao thì dù, dù co giò chạy trốn, dù đứng lại đại từ bi ù lỳ ra
đó, dù sao thì dù, cũng cảm thấy ở trong mình toàn thể hình hài, xương xẩu, máu
me, xương bánh chè, xương sườn suốt dọc xương sống, cùng một loạt thi đua nhau
tam bành lảo đảo, tứ trướng gào kêu trong trận rụng rơi toàn diện. Lả tả toàn
phương, không có cách gì cưỡng áp, đành phó mặc cho danh hoàn bờ cõi thổi đợt đợt
gió về mà xô đẩy như đẩy xô quay tít những chiếc lá ngô đồng lúc thu sang trong
trận gió may heo hút. (Dư bất cảm hồi mâu chính thị, duy tâm như phiêu nhiên
phù động, như thu phong xuy lạc diệp, bất tri hà sở chỉ, bất thức hà phương
lưu, bất hội hà xứ đình, Bất nghiệp hà sở đậu) — Bản dịch Anh ngữ: "I did not have the courage to turn my eyes
to look directly at her, but my heart fluttered aimlessly, like falling leaves
wafted by autumnal winds and not knowing whether they would land" — Tôi
chẳng có can đảm đưa mắt nhìn thẳng vào mắt nàng, nhưng mà trái tim tôi phù động
phiêu nhiên bất định, giống như những lá rơi, bị gió thu xô đẩy, và chẳng rõ sẽ
rơi rụng vào nơi đâu mà cập bờ cập bến.
Anh em tôi cùng mẹ tôi cư lưu tại nhà dì tôi giữa một vùng hồng nhan thiên
hương gay cấn bốc hơi lừng tia ra như thế, quả thật chẳng khác gì đem thân thế
mà ủy thác vào Vườn Tược Nhà Trời, vào Đào Nguyên Bích Động, Thanh Ngạn Xum
Xuê, bốn bề Xiêm Nghê Thánh Thót, Thần Thơ Oản Oẻn Ngây Dại Thêm Ra.
Dì tôi vốn đã yêu tôi rất mực, tôi chỉ còn biết dâng lên một vạn cung kính một
ngàn kính cung cẩn trọng để phụng bồi a dì, a mẫu cho hân hoan sắc mà thôi, tự
thân cảm thấy từng bừng phiêu bồng thái thậm. Nếu trong lòng thảng hoặc có vướng
víu chạm phải những gì chả rõ của cái quá khứ đoạn trường về luẩn quẩn một cái
bên, thì tôi lại tựa lưng vào những gốc cây tùng cây bách, nhìn cái nước chảy
lòe xòe, hoặc cầm quyển thi thư mà giải muộn. Phòng văn Tĩnh Tử vốn chứa
nhiều sách lý học đời Tống, ngoài ra còn vài loại Phạn chương, Lư văn nữa, đã bị
con trùng sâu bọ rủ rê dán chuột gặm mòn bên những bầy mối hoen hoen. Đọc không
ra được cái nét chữ. Thảy đều là thi thư ra đường. Lại còn thêm vài bản dịch
Ba La Đa và Ma Hát Thư, ấy là những thi thư thuật sự thiên trường địa hậu đậu lại
bờ hoa. Hai quyển thư này ngày nay đã thất truyền tại Trung Quốc. Duy chỉ trong
Hoa Nghiêm kinh là ngẫu nhiên có nhắc tới danh xưng hai bộ sách đó, và nghe nói
rằng ấy là do bàn tay Mã Minh Bồ Tát soạn ra. Ngày nay bản dịch Anh ngữ (của
ông Dutt) (12) về những cuộc chinh phạt của những bộ lạc Bhrata (13), cũng là một phần
trong bộ sách đó.
|